Sự việc Bộ Công an mới đây đã bắt Viện trưởng, Viện phó và một số cán bộ Viện Pháp y tâm thần Trung ương Biên Hòa để điều tra, làm rõ một số hồ sơ liên quan đến kết quả giám định, điều trị những bệnh nhân, đã đặt ra câu hỏi rằng, khi một người có giấy chứng nhận mắc bệnh tâm thần sẽ bị ảnh hưởng thế nào?
Luật sư Nguyễn Văn Hậu – Chủ nhiệm Cơ quan Truyền thông Liên đoàn Luật sư Việt Nam – cho biết, khi một người mắc bệnh tâm thần sẽ ảnh hưởng đến năng lực hành vi dân sự của cá nhân được quy định tại Điều 19, Bộ luật Dân sự 2015.
Khi phát sinh các dấu hiệu của bệnh tâm thần, trước tiên, cá nhân đó cần phải đến các cơ sở khám chữa bệnh có chuyên môn để tiến hành chẩn đoán, nếu thật sự có dấu hiệu tâm thần thì cơ sở sẽ cấp cho bệnh nhân Giấy chứng nhận tâm thần. Tuy nhiên, để xác định cá nhân thật sự là người bị mất năng lực hành vi dân sự thì cần phải thông qua quy trình yêu cầu Tòa án ra quyết định tuyên bố người này là người mất năng lực hành vi dân sự trên cơ sở kết luận giám định pháp y tâm thần.
Đối với người bệnh tâm thần bị tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự, các cá nhân này chỉ có thể tham gia thực hiện giao dịch dân sự thông qua người đại diện hợp pháp.
Điều 21 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi 2017) quy định người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi đang mắc bệnh tâm thần, một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình, thì không phải chịu trách nhiệm hình sự. Thực tế hiện nay, tình tiết mắc bệnh tâm thần cũng được nhiều cá nhân đưa ra với mục đích yêu cầu Tòa án xem xét giảm nhẹ hình phạt.
Tuy nhiên, Bộ luật Hình sự có chia ra 3 trường hợp về bắt buộc chữa bệnh nhằm ngăn chặn tình trạng lợi dụng bệnh tâm thần để trốn tránh trách nhiệm hình sự, như sau:
1. Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi mắc bệnh quy định tại Điều 21 của Bộ luật này, Viện kiểm sát hoặc Tòa án căn cứ vào kết luận giám định pháp y, giám định pháp y tâm thần có thể quyết định đưa họ vào một cơ sở điều trị chuyên khoa để bắt buộc chữa bệnh;
2. Người phạm tội trong khi có năng lực trách nhiệm hình sự nhưng trước khi bị kết án đã mắc bệnh tới mức mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình, thì căn cứ vào kết luận giám định pháp y, giám định pháp y tâm thần, Tòa án có thể quyết định đưa họ vào một cơ sở điều trị chuyên khoa để bắt buộc chữa bệnh. Sau khi khỏi bệnh, người đó có thể phải chịu trách nhiệm hình sự;
3. Người đang chấp hành hình phạt tù mà bị bệnh tới mức mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình, thì căn cứ vào kết luận giám định pháp y, giám định pháp y tâm thần, Tòa án có thể quyết định đưa họ vào một cơ sở điều trị chuyên khoa để bắt buộc chữa bệnh. Sau khi khỏi bệnh, nếu không có lý do khác để miễn chấp hành hình phạt, thì người đó phải tiếp tục chấp hành hình phạt.
Như vậy, tùy theo trường hợp cụ thể, Tòa án có thể xem xét và quyết định đưa người phạm tội vào cơ sở điều trị chuyên khoa để bắt buộc chữa bệnh, chứ không phải đương nhiên được miễn hình phạt, khi khỏi bệnh thì người đó vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự trong trường hợp vẫn còn thời hạn chấp hành hình phạt tù.
Thực tế, có một số người đã lợi dụng làm giả giấy chứng nhận bệnh tâm thần để nhằm trốn tránh trách nhiệm hình sự. Đây là hành vi phạm tội được quy định xử phạt theo Điều 341 Bộ luật Hình sự về “Tội sử dụng con dấu, tài liệu giả của cơ quan, tổ chức” với hình phạt tối đa có thể lên đến 7 năm tù giam.
Khi phát hiện một vụ việc có sử dụng giấy tờ giả mạo, cơ quan chức năng sẽ tiến hành điều tra chuyên sâu, từ đó phát hiện sự tham gia của các cá nhân trong cơ sở khám chữa bệnh đã có hành vi cấp giấy sai, giả mạo giấy tờ và tiến hành truy cứu trách nhiệm của các cá nhân này.
NAM DƯƠNG
Nguồn: Báo Lao Động
https://laodong.vn/phap-luat/nguoi-co-chung-nhan-mac-benh-tam-than-bi-anh-huong-the-nao-1354493.ldo